Quá trình điều tra, truy tố, và xét xử các vụ án tham ô tài sản trong thời gian gần đây đã bộc lộ nhiều sai sót, dẫn đến tình trạng phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc không đủ căn cứ để chứng minh tội phạm và xác định người phạm tội, gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của công tác phòng chống tội phạm.
Tội tham ô tài sản có dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm, và yếu tố quan trọng trong việc xác định hành vi vi phạm tội cũng như để phân biệt với các tội phạm khác là người phạm tội tham ô tài sản phải là người lợi dụng chức vụ và quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Tuy nhiên, có những trường hợp cụ thể khi các cơ quan tiến hành tố tụng có thể đánh giá sai về khách thể bị xâm hại, dẫn đến nguy cơ xảy ra oan sai hoặc việc không xác định đúng người phạm tội.
Chẳng hạn, một ví dụ cụ thể có thể là trường hợp thủ quỹ lấy tiền từ két sắt của cơ quan và gửi tiết kiệm mang tên cá nhân hoặc người khác. Lãi suất từ khoản tiền gửi tiết kiệm này sau đó được đối tượng thủ quỹ sử dụng vào mục đích tiêu sài cá nhân. Khi cơ quan phát hiện việc này, đối tượng thủ quỹ thường đến ngân hàng để rút tiền và hoàn trả lại cho cơ quan. Tuy nhiên, trong việc xử lý pháp lý, có thể xảy ra việc đánh giá sai và cần điều tra bổ sung để xác định tình tiết cụ thể.
Đây là một tình huống phức tạp thường gặp trong thực tế, và đối với những trường hợp như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Quan điểm thứ nhất cho rằng, đối tượng vi phạm tội tham ô tài sản theo quy định của Điều 353 Bộ Luật Hình Sự năm 2015 bởi đã sử dụng quyền hạn được giao để chiếm đoạt tài sản mà mình phải quản lý. Hành vi này xâm hại đến hoạt động đúng đắn của cơ quan hoặc tổ chức trong việc quản lý, sử dụng tài sản và quản lý quyền sở hữu tài sản. Quan điểm thứ hai, ngược lại, cho rằng đối tượng vi phạm tội sử dụng trái phép tài sản theo quy định của Điều 177 Bộ Luật Hình Sự năm 2015, vì đối tượng chỉ chiếm hữu và xâm phạm đến quyền sử dụng tài sản, nhưng không chiếm đoạt tài sản.
Trong trường hợp này, việc áp dụng quan điểm thứ hai là phù hợp vì đối tượng thủ quỹ chỉ có ý định khai thác lợi ích từ tài sản mà không có ý định chiếm đoạt tài sản. Quyền sử dụng tài sản là mục tiêu chính, và việc xâm phạm tài sản chỉ là một phương tiện hoặc thủ đoạn để đạt được mục tiêu này, chứ không phải để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, việc xem xét liệu đối tượng có vi phạm tội tham ô tài sản hay không còn phụ thuộc vào việc có thể chứng minh ý định chiếm đoạt tài sản hay không.
Trong những trường hợp tương tự, như trường hợp thủ quỹ lấy tiền từ két sắt của cơ quan để gửi vào tài khoản tiết kiệm dưới tên của mình hoặc người khác, việc xác định khách thể mà tội phạm đang nhắm đến và mục tiêu của việc sử dụng tài sản là một yếu tố quan trọng. Cụ thể, phải phân biệt xem đối tượng vi phạm có dự định sử dụng tài sản để hợp pháp, trái phép hay để đảm bảo hoạt động đúng đắn của cơ quan hoặc tổ chức trong việc quản lý và sử dụng tài sản.
Trong từng trường hợp cụ thể, việc chiếm hữu tài sản của đối tượng có thể diễn ra theo nhiều cách khác nhau, bao gồm cả cách công khai và hợp pháp, cũng như cách lén lút và trái phép. Nếu vụ việc chỉ liên quan đến việc đối tượng chiếm hữu tài sản để khai thác lợi ích tài sản một cách trái phép mà không xâm phạm đến quyền định đoạt tài sản và không có ý định chiếm đoạt tài sản, thì hành vi này có thể được xem là vi phạm tội sử dụng trái phép tài sản. Tuy nhiên, nếu có chứng cứ cho thấy đối tượng có ý định chiếm đoạt tài sản, và việc sử dụng trái phép tài sản là một phần trong chuỗi các hành vi mục tiêu chiếm đoạt tài sản mà đối tượng quản lý, thì trong trường hợp này, có thể xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản.
Chi tiết xin liên hệ: Công ty Luật Thái Dương FDI Hà Nội
Điện thoại: 0866 222 823
Email: luatthaiduonghanoi@gmail.com
Website: https://luatthaiduonghanoi.com
Fanpage: https://www.facebook.com/luatthaiduongfdihanoi
Địa chỉ: Tòa nhà Licogi 13, Số 164 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội