CÔNG TY LUẬT TNHH
THÁI DƯƠNG FDI HÀ NỘI

Luật Dân sự

Khai nhận di sản thừa kế là quyền sử dụng đất khi chưa được Nhà nước công nhận

  • cal 10/11/2023

Khai nhận di sản thừa kế là quyền sử dụng đất khi chưa được Nhà nước công nhận (ảnh minh họa)

Nội dung bài

1. Thừa kế quyền sử dụng đất

  • Quyền sử dụng đất là tài sản đặc thù, do toàn dân nắm giữ, do Nhà nước thống nhất đại diện và quản lý. Nhà nước cấp cho người sử dụng đất quyền sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai. Những làn điệu dân ca về sử dụng đất đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ, trải dài trong lịch sử dân tộc, gắn liền với đời sống cá nhân và hoạt động kinh doanh của các tổ chức. Quyền sử dụng đất được hiểu là hành vi khai thác sử dụng và hưởng lợi từ lợi ích, nguồn thu của Nhà nước cấp quyền sử dụng đất cho cá nhân, tổ chức, hộ gia đình hoặc người sử dụng đất khác theo quy định của pháp luật. . Khi một người sử dụng đất qua đời, việc tiếp tục sử dụng đất thông qua xác định quy hoạch trở thành vấn đề cấp thiết đối với người kế thừa.

  • Việc thừa kế quyền sử dụng đất trước đó là không được pháp luật cho phép, người sử dụng đất chỉ được khai thác giá trị quyền sử dụng đất mà không được quyền trao đổi, chuyển nhượng cho người khác. Trong thời kỳ ra đời Hiến pháp 1992 cũng như Luật Đất đai 1993 và Bộ luật Dân sự 1995, việc thừa kế quyền sử dụng đất được thừa nhận là một thể chế quan trọng. Bộ luật Dân sự 2015 định nghĩa quyền sử dụng đất là quyền tài sản và có thể được đàm phán thông qua hợp đồng quyền sử dụng đất quy định tại Mục 7. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 không đưa ra định nghĩa về thừa kế quyền sử dụng đất cũng như quy định về thừa kế quyền thừa kế đối với quyền sử dụng đất. Điều này có nghĩa là việc kê khai, thỏa thuận chia di sản sẽ được thực hiện theo nguyên tắc chung về thừa kế như các tài sản chung khác.

  • Để tiếp tục khai thác công dụng, hưởng lợi từ quyền sử dụng đất, người thừa kế phải kê khai thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự, pháp luật về đất đai và pháp luật công. bằng chứng và nhiều văn bản pháp luật liên quan khác. Với sự chồng chéo của nhiều hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, người thừa kế khó thực hiện được quyền của mình. Chưa kể việc kê khai càng trở nên khó khăn hơn trong khi trước đây quyền sử dụng đất của người để lại thừa kế lại không được Nhà nước công nhận.

2. Khai nhận di sản thừa kế là quyền sử dụng đất khi chưa được Nhà nước công nhận

2.1. Về điều kiện để tiến hành khai nhận di sản thừa kế

  • Giao dịch về bất động sản – đặc biệt là các giao dịch làm chuyển quyền sở hữu/ sử dụng đối với bất động sản, cần phải đáp ứng được các điều kiện của pháp luật dân sự, pháp luật đất đai. Điều 179 Luật Đất đai năm 2013 ghi nhận quyền của người sử dụng đất được để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật. Song người sử dụng đất muốn thực hiện quyền để lại thừa kế thì phải có quyền sở hữu/ sử dụng hợp pháp đối với tài sản đó. Đối với quyền sử dụng đất, để thực hiện các giao dịch người sử dụng đất phải được cấp Giấy chứng nhận; song đối với việc để lại thừa kế thì Giấy chứng nhận không phải là yêu cầu mang tính bắt buộc, người sử dụng đất chỉ cần chứng minh mình đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận thông qua các giấy tờ, tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật đất đai.

  • Mặc dù quy định này nhằm bảo đảm quyền tiếp tục sử dụng đất của những người thừa kế và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các thủ tục đòi, chia, đăng ký quyền sử dụng đất; Tuy nhiên, các quy định này chưa ghi rõ các loại giấy tờ, tài liệu mà người sử dụng đất phải cung cấp. Điều này khiến những người thừa kế gặp rất nhiều khó khăn khi phân chia di sản thừa kế, đặc biệt là đất sử dụng lâu năm, giấy tờ, tài liệu bị thất lạc, điều này chứng tỏ ngay cả việc này cũng khó khăn. Ý chí trở thành không thể được.

2.2. Về thủ tục tiến hành khai nhận di sản thừa kế

Khoản 3, Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 quy định văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất phải được công chứng hoặc chứng thực tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã. Trên cơ sở đó, công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm kiểm tra để xác định người để lại di sản đúng là người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản. Thực tế, những trường hợp người để lại di sản thừa kế đã được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây được gọi tắt là Giấy chứng nhận) thì việc xác minh thông tin tài sản đơn giản, dễ dàng hơn rất nhiều. Song với những trường hợp người để lại di sản thừa kế là người đang sử dụng đất, chưa được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất, chưa được cấp Giấy chứng nhận thì việc tiến hành phân chia di sản thừa kế sẽ gặp phải một số khó khăn như:

  • Thứ nhất, công chứng viên của tổ chức hành nghề có thể tiến hành xác minh để đánh giá tính hợp pháp của tài sản, song không có thẩm quyền để công nhận quyền sử dụng đất của người để lại di sản thừa kế. Chính bởi vậy, trong nhiều trường hợp để đảm bảo an toàn pháp lý, cũng như chắc chắn cho việc phân chia di sản thừa kế, công chứng viên của các tổ chức hành nghề từ chối việc công chứng văn bản khai nhận/ thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, mặc dù theo quy định pháp luật hiện hành việc công chứng văn bản này không bắt buộc phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản và các tài sản khác gắn liền.

  • Thứ hai, quy định về hình thức thực hiện văn bản khai nhận/ thỏa thuận phân chia đang đánh đồng giá trị pháp lý của văn bản được công chứng và văn bản được chứng thực. Trong khi đó, văn bản khai nhận/ thỏa thuận phân chia chỉ có giá trị chứng cứ với vụ việc, xác định tính có thật của việc khai nhận, phân chia di sản thừa kế; chứ không đảm bảo việc khai nhận, phân chia di sản thừa kế này là hợp pháp. Chính bởi vậy, trên thực tế, có nhiều trường hợp sau khi khai nhận, phân chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất thì xảy ra tranh chấp, song tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, dẫn đến tình trạng khiếu kiện phức tạp, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người thừa kế khác.

2.3. Người thừa kế là người Việt Nam định cư tại nước ngoài hoặc người có quốc tịch nước ngoài.

Tại khoản 3, Điều 186 Luật Đất đai năm 2013 quy định: Trong trường hợp người thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng có quyền sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở thì có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam. Trong trường hợp người thừa kế là người Việt Nam định cư tại nước ngoài song không thuộc đối tượng có quyền sở hữu nhà ở hoặc là người nước ngoài thì chỉ được hưởng giá trị của nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở, không được cấp Giấy chứng nhận nhưng được chuyển nhượng hoặc tặng cho quyền sử dụng đất thừa kế theo quy định.

Có nghĩa là khi người thừa kế là người Việt Nam định cư tại nước ngoài hoặc người nước ngoài chỉ được hưởng giá trị di sản thừa kế thông qua việc chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất cho người khác đủ điều kiện theo quy định tại khoản 3, Điều 186 Luật Đất đai năm 2013. Quy định nêu trên mặc dù đã bảo đảm được quyền tài sản của người thừa kế song lại chưa có các văn bản hướng dẫn để họ thực hiện các quyền của mình đối với tài sản. Do đặc thù của người Việt Nam định cư tại nước ngoài và người nước ngoài là không thường trực ở Việt Nam, vì nhiều lý do khác nhau, đôi khi việc thực hiện các quyền đối với tài sản của họ tại Việt Nam phải thông qua bên thứ ba (ủy quyền). Trên thực tế, việc người nước ngoài có thể trực tiếp hoặc thông qua ủy quyền để thực hiện quyền thừa kế của mình cũng gặp rất nhiều vướng mắc, do đó cần có cơ chế để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các chủ thể nêu trên trong trường hợp đặc biệt này.

Chi tiết xin liên hệ:

Công ty Luật Thái Dương FDI Hà Nội

Điện thoại: 0866 222 823

Email: luatthaiduonghanoi@gmail.com

Website: https://luatthaiduonghanoi.com

Fanpage: https://www.facebook.com/luatthaiduongfdihanoi

Địa chỉ: Tòa nhà Licogi 13, Số 164 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội


Bài viết liên quan